CHỨNG XUNG NHÂM Ứ TRỞ
Chứng Xuìĩg Nhâm ứ trở là chì ứ huyết ngưng kết ở Xung Nhâm, làm cho kinh khí bị nghẽn trệ gây nên một loạt các chứng trạng.
Các loại ngoại cảm phong hàn, nội thương sổng lạnh, thất tinh uãt kết đều là những nhân tố sinh ra ứ kết; sau khi đẻ ác lộ không sạch cũng có thể dẫn đến ứ huyết ngưng kết.
Chứng trạng chủ yếu của chứng này trên lâm sàng hoặc là kinh nguyệt quá sớm, hoặc là kinh nguyệt quá muộn, hoặc hành kinh đau bụng, hoặc lậu hạ không dứt, hoặc bế kinh không thàng, hoặc ốc lộ quá kỳ không sạch, hoặc Bụng dưới có Trưng Hà.
Chứng này thường gặp trong các bệnh Nguyệt kinh trước kỳ, Nguyệt kinh sau kỳ, Thống kinh, Báng lậu, Bế kinh, Trưng Hà, Ác lộ bất tuyệt…
Càn chẩn đoán phân biệt với chứng Xung Nhâm ứ thẵp ngưng
kết.
Kinh nguyệt thất thường là đặc trưng chủ yếu của chứng này. Vì mức độ ứ huyết có nặng nhẹ khác nhau nên triệu chứng cũng khác nhau. Như chứng này gặp trong loại Kinh nguyệt thấy sớm thỉ hành kinh lượng ít, không thư sướng, sắc huyết tía đen có hòn cục, kèm theo chứng đau bụng nhẹ. Nếu gập trong loại Kinh nguyệt thấy muộn thì hành kinh lượng hơi ít, sác tối có cục, đau bụng dưới^ Gặp trong loại Thống kinh thì hành kính ra sớm hay muộn đau bụng dưới kịch liệt, kinh huyết ra lượng ít không thư sướng, ra cục huyết hoặc có những mảnh như thịt vụn nát, cục ra được thỉ đau bụng giảm nhẹ. Gặp trong loại Băng lậu thì huyết ra lượng nhiều ctí kèm cục huyết lớn, cục huyết ra được thỉ đau bụiỊg hết ngay hoặc xuất huyểk lượng ít không dứt, Gặp trong bệnh Bế kinh thì dụng dưới trệ và đau, cự án, bạch đái khá nhiều. Gặp trong bênh Trưng Hà thì xuất hiện chứng trạng bất nhất; Hoặc là nguyệt kinh lượng nhiều, hoặc là thời gian hành kinh kéo dài, hoặc là khi hành kinh đau bụng không chịu nổi, hoậc là bành kinh không có biến hoá. Gặp trong bệnh Ác lộ ra không dứt thì lượng hành kinh ra rất ít nhưng kéo dài có khi bài tiết ra thứ như thịt vụn.
Vì ứ huyết nghẹn trệ, khí huyết do hậu thiên sinh hóa không khả năng đi xuống, tinh khí của tiên thiên bị ngăn trở không thàng, vì thế mà Xung Nhâm ứ trở, bộc lộ hiện tượng Bản Hư Tiêu Thực.
Về điều trị, nên phân biệt căn cứ vào ứ huyết và mức độ chính khí hư kém khác nhau để mà chọn phương, điều khiển vị thuốc. Lâm sàng nói chung cho là nguyệt kinh sớm, kinh nguyệt muộn và bế kinh phần nhiều thuộc loại ứ kết nhẹ, cho uống bài Quế chi giá trùng thang (Trung y chứng trạng giám biệt chán đoán học) là có thể tiêu tan nhanh. Còn Băng lậu thị thuộc loại hư thực cùng xuất hiện, chí nên tiêu bổ cùng dùng, ctí thể uống bài Hoá ứ chỉ huyết phương (Trung y chứng trạng giám biệt chẩn
đoán học) để làm chậm dịu cái ứ. Các chứng Thống kinh, Ác lộ không dứt thuộc loại ứ trệ không thàng, có thể dùng Xúc cụng trục ứ thang (Trung y chứng trạng giám, biệt chẩn đoán học) .để phù chính khư ứ. Chứng Trung Hà thuộc loại túc ứ cố kết khtí tiêu tán nhánh, nên dùng Quế chi phục linh Koẳn (Kim Quỹ yếu lưộc) gĩa vị để tiêu tan từ từ. Tóm ĩại, điềú trị lâm sàng cần thiết phải phân biệt tiêu t)ản hư thực rõ ràng, để mát tới âm dương khí huyềt, hoậc tiêu hoặc bổ, hoậc tiêu bổ cùng dùng, cổt yếu là công không làm hại chính, bổ mà không lưu trệ.
Ba loại hành kinh sớm, hành kinh mụộn và thống kinh phần nhiềụ phát sinh ở phụ nữ trẻ tuổi, ở đây có liên quan tới sự chú ý nhiếp sinh khi đạng hành kinh hoặc khi đang hành kinh lại vận động kịch liệt dễ. biến thành huyết ứ. Bâng lậụ và Bế kinh thường phát sinh ở người Thận hư, cho nên triệu chứng tuy ctí hiện tượng ứ cũng là bản Hư mà tiêụ Thực. Loại ứ trở Xung Nhâm này là thuộc tiêu bệnh của Xung Nhâm.,.Ngoài ra, nội thương thất tình, thay đổi hỡàn cảnh cũng có thể là dụ nhân của Thống kinh, Bế kinh và Hành kinh muộn. Trưng Hà íhường phát sinh ở phụ nữ tuổi 30 – 50; trước 20 tuổi hoặc sau 50 tuổi rất ít gặp, bệnh này có liên quan chặt chẽ tới nhân tố tình chí và Xung Nhâm mỗt điều hòa.
Chứng Xung Nhâm ứ trở nếu ứ kết kéo dài ngày, ctí thể trở thành Trưng Hà. Nếu bệnh trình quá dài cđ khi xuất hiện cả các chứng trạng khí huyết hư suy hoặc Tỳ hư không vận hổa, huyết không nuôi dưỡng Tâm.
Chứng Xung Nhâm ứ thấp ngưng kết với chứng Xung Nhâm ứ trở: Loại trên phần nhiều do khi hành kỉnh hoậc sau khi đẻ, nhiếp sinh không cắn thận, bệnh tà nhân chỗ hư lọt vào Xung Nhâm, đến nỗi khí huyết vận hành không thư sướng tạo thành ứ thấp lưu đọng; Hoặc do công nàng tạng phủ không binh thường, Xung Nhâm mất điều hòa gây nên. Còn phát sinh loại sau phần nhiều do thất tỉnh nội thương, Can khí uất kết, khí huyết vận hành không thư sướng; Hoặc là sau khi đẻ bào mạch rỗng không, hoặc đang lúc hành kinh huyết thất mở rộng, phong hàn nhân chỗ hư lọt vào, làm ngưng trệ khí huyết. Hoặc là cáu giận hại Can, ưu tư thương Tỳ, Tạng Phủ mất điều ỉ^òa; Hoặc là khi hành kinh, mới sinh đẻ lại bị tổn thương vỉ phòng thất, ứ huỵết ngưng tụ ở Xung Nhầm gây nên bệnh. ‘Nhưng ứ huyết kết ở trong làm trở ngại khí lưu thồng, cũng có thể hỉnh thành thủy thấp, vì vậy chúng ứ huyết phần nhiều có kiêm thủy thấp. Cho nên hai chứng này về phương diện nguyên nhân và cơ chế bệnh, so sánh phân biệt rất khđ khãn. Khi lâm sàng, nên kết hợp kiểm tra tỉ mĩ giữa chứng trạng và đặc trưng toàn thể, yếu điểm phân biệt chứng hậu lâ: ứ thẩp ngưng kết thường lấy "đái hạ" làm chính, cồn ứ trở thường lấy "phúc thống" làm chính. Nếu đằ thành Trưng Hà thì loại trên lấy bộ vị bụng dưới (tức phàn phụ) chất mềm mại, qui tác hỉnh dáng, lớn nhỏ bất nhất, sinh trưởng khá nhanh hoặc to thêm không rõ ràng, kinh nguyệt nói chung bình thường; Còn loại dưới thì vị trí ở giữa bụng dưới (tức dạ con) chất hơi cứng), hỉnh trạng không -qui tắc, nói chung nhỏ hơn, sinh trưỏng từ từ, kinh nguyệt qui tấc hoặc không qui tắc thì xuất huyết âm đạo, hoặc kinh nguyệt quá nhiều, hoặc thống kinh nghiêm trộng.
y văn
Nhâm mạch gây bệnh, nam giới thì thất sán kết ở trong,
nữ giới thì đái hạ hà tụ (Cốt không luận • Tố Vấn).
Xung mạch gây bệnh, nghịch khí lý cấp (Cốt không luận – Tố Ván).
Huyết ứ Xung Nhâm có thể gây Bế kính (Y học trung trung tham tây lục).
Xung mạch gây bệnh* dùng Tử thạch anh để trấn nghịch. Nhâm mạch gây bệnh, dùng Quy bản để trấn nhiếp (Làm chứng chỉ nam y án).
Xem tiếp >>