1. Đại cương
Ngạt nước là một cấp cứu cần được tiến hành khẩn trương tại chỗ. Tiên lượng của bệnh nhân tùy thuộc vào xử trí ban đầu. Sau khi nạn nhân tự thở được, tim đập trở lại cần đưa vào bệnh viện để tiếp tục được hồi sức và theo dõi.
Cần nhớ sau ngạt nước có 4 rối loạn chính đe dọa tính mạng bệnh nhân là:
– Giảm Oxy máu do nước trong phổi tạo một màng ngăn cản sự trao đổi khí.
– Phù phổi cấp do tổn thương màng mao mạch phế nang.
– Hạ thân nhiệt.
– Trụy mạch.
2. Xử trí
2.1. Nguyên tắc
1 phương châm cơ bản:
– Sơ cứu tại chỗ tích cực, đúng phương pháp.
– Kiên trì cấp cứu trong nhiều giờ.
2.2. Sơ cứu tại chỗ
Sau khi đưa nạn nhân lên bờ:
– Tát 2-3 cái thật mạnh vào má gây phản xạ hồi tỉnh.
– Nếu ngừng tim phải đấm mạnh vào vùng trước tim 5-6 cái để gây phản xạ đập trở lại của tim.
– Xốc nước trong phổi và dạ dày ra:
+ Ở trẻ em: Nắm 2 chân, đầu dốc ngược xuống.
+ Ở người lớn: Để nằm sấp, đầu dốc, vác hai chân lên vai.
+ Móc họng lấy đờm giãi, dị vật. Lấy khăn lau sạch mũi, họng, miệng.
– Tiến hành hô hấp nhân tạo miệng – miệng và xoa tim ngoài lồng ngực nếu không thấy mạch bẹn.
Khi có kíp cấp cứu đến, đặt nội khí quản, bóp bóng nếu bệnh nhân vẫn chưa tự thở lại được và chuyển ngay đến bệnh viện.
2.3. Tại bệnh viện
Tùy theo tình trạng của nạn nhân, có thể có xử trí khác nhau. Thông thường là:
– Nếu nạn nhân vẫn chưa tự thở lại và chưa tỉnh: Cho thở máy.
– Điều chỉnh rối loạn nước, điện giải, thăng bằng toan kiềm dựa vào áp lực tĩnh mạch trung tâm và điện giải đồ.
– Chụp phim phổi để theo dõi phù phổi cấp và bội nhiễm phổi để điều trị kịp thời.
– Cho trợ tim, lợi tiểu, giãn phế quản, corticoides và kháng sinh tùy trường hợp. Theo dõi sát toàn trạng trong 48 giờ.
– Chú ý không được bỏ sót những tổn thương phối hợp, nhất là những chấn thương. Giải thích cho gia đình nạn nhân biết là mặc dù nạn nhân đã tỉnh nhưng vẫn có thể diễn biến xấu đến tử vong trong những ngày sau vì phù phổi cấp.