Bài thuốc ĐẠI SÀI HỒ THANG
Nguyên bản bài thuốc
(DAI SAI KO TO)
Thành phần và phân lượng: Sài hồ 6g, Bán hạ 3-4g, Sinh khương 4-5g, Hoàng cầm 3g, Thược dược 3g, Đại táo 3g, Chỉ thức 2g, Đại hoàng 1-2g.
Cách dùng và lượng dùng: Thang.
Trong sách Thương hàn luận thì không có Đại hoàng, còn trong sách Kim quỹ yếu lược thì lại có Đại hoàng. Cần phải gia giảm Đại hoàng tùy theo tình trạng đại tiện như thế nào. Cho các vị thuốc vào sắc với 700cc nước, lấy 400 cc, bỏ bã, sau đó cho nước thuốc lên cô tiếp lấy 300 cc, chia uống ngày 3 lần.
Trong trường hợp bệnh nhẹ thì Sài hồ và Bán hạ mỗi thứ 6g cũng có hiệu quả. Trong mục đầy và đau vùng lõm thượng vị sách Kim quỹ yếu lược có ghi Đại hoàng là 2g. Có lẽ cũng không nên tranh luận nên hay không nên cho Đại hoàng vào bài thuốc này, cũng không phải dứt khoát là phải có Đại hoàng, mà cũng có trường hợp cần cho Đại hoàng, cũng có trường hợp không cần cho Đại hoàng.
Công dụng: Thuốc dùng trị các chứng viêm dạ dày, bí đại tiện thường xuyên, mới tê vai (chứng toàn thân của bệnh cao huyết áp), đau đầu, táo bón, mỏi tê vai, phát phì ở những người to béo, thể lực tương đối khá và có chiều hướng bí đại tiện.
Giải thích:
Theo sách Thương hàn luận và sách Kim quỹ yếu lược: Bài thuốc có Sài hồ là thuốc dùng cho những người bị đầy tức ở vùng sườn ngực, song trong số các bài có Sài hồ, bài thuốc này được dùng cho những người bị thực chứng và có thể lực khá. Do đó, những người dùng Đại sài hồ thang thường là những người bệnh trạng nặng. Cả mình và người ngoài đều nhận biết được hiện tượng đầy trướng vùng sườn rất đau đớn khó chịu. Đối với những người bị sốt, buồn nôn và nôn mửa nặng, trên lưỡi đã xuất hiện rêu vàng, không muốn ǎn uống và có chiều hướng bí đại tiện, hoặc những người tuy không sốt và bí đại tiện, nhưng những chứng bệnh nói trên nặng thì khi dùng bài thuốc này nên bỏ Đại hoàng.
Sách Phương cực loại tụ viết: "Đối tượng của bài thuốc này là chứng đầy tức ở vùng bụng trên, người cảm thấy nặng nề, u uất, không muốn ǎn uống, thuốc rất có hiệu quả đối với người bị tâm thần dạng u uất. Thuốc này cũng rất tốt đối với những người bị chứng tê cứng từ nách trái kéo xuống vùng bụng trên, hoặc gân mạch vùng nách trái bị co thắt, sờ tay vào rất đau, bí đại tiện, vui buồn thất thường. Hoặc, bài thuốc này rất có tác dụng đối với chứng rụng tóc do can hỏa. Và cũng có thể kể thêm chứng sốt, đầy trướng bụng trên, nôn mửa trong giai đoạn đầu của bệnh ỉa chảy cũng là đối tượng của bài thuốc này. Bài thuốc này thêm Nhân trần dùng để trị chứng hoàng đảm bụng trên đầy tức".
Theo các tài liệu tham khảo và Giải thích các bài thuốc: Thuốc dùng cho những trường hợp thực chứng, bệnh trạng nặng, về thể chất phần lớn là những người béo khỏe, gân cốt chắc chắn, cường tráng và cǎng. Thông thường đó là những người có mạch trầm, thực, nhưng chậm, phần bụng thì góc bụng trên rộng, da bụng trên dày, chắc và cǎng, tới mức lấy tay ấn vào bụng chỗ bên dưới rẻ xương sườn cuối cùng cũng không lõm xuống. Do đó, ở vùng ngực có cảm giác cǎng, đầy tức, đau đớn, có chiều hướng bí đại tiện, khí bị chèn chặt ở bên trong không muốn thoát ra ngoài. Chính vì thế mà bị bí đại tiện, hoặc ỉa chảy, nôn mửa, xuyễn, về mặt tinh thần thì lại hướng ra ngoài, hay quát tháo, to tiếng, dễ cáu gắt. Vùng ngực cǎng cho nên nếu thắt lưng thì thấy rất khó chịu, tức tối.
Sách Vật ngộ phương hàm khẩu quyết viết: "Ngoài việc rất hay dùng cho các chứng thiếu dương, đối tượng của bài thuốc này còn là trị chứng đầy tức ở vùng bụng trên, bài thuốc cũng rất có hiệu nghiệm với trường hợp mà người ta vẫn gọi là tâm trạng u uất trong các dạng bệnh tâm thần. Đối với những người bị bệnh này ở dạng nặng nhất, S. Emi cho thêm Hương phụ tử và Cam thảo, còn Takashina thì bỏ Đại táo, Đại hoàng, thêm Linh dương giác, Điếu đằng, Cam thảo. Dẫu sao thì đấy cũng là loại chủ dược đối với chứng động kinh. Đối với những người bán thân bất toại, cấm khẩu thì trước kia người ta coi là hiện tượng giống như bị trúng phong, nhưng do can tích kinh mạch tắc nghẽn đường khí huyết hắc khiến cho khí huyết không lưu thông, cuối cùng dẫn tới bất toại, bài thuốc này có công hiệu đối với những người thuộc can thực. Bài thuốc này cũng còn trị chứng tê cứng vùng từ nách trái xuống đến vùng bụng trên, hoặc cơ và mạch ở nách trái bị co thắt, dùng tay ấn vào đó thấy đau, bí đại tiện, vui buồn thất thường v.v…"
Lưu ý khi dùng thuốc:
- Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
- Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng
- Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý
- Đang tiếp tục cập nhật